Sign In

Lịch sử hình thành và phát triển

17:00 31/07/2017

Chọn cỡ chữ A a  

CỤC VIỄN THÁM QUỐC GIA
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN

         Cục Viễn thám quốc gia là tổ chức trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Môi trường có chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước về viễn thám; tổ chức thực hiện các dịch vụ công về viễn thám theo quy định của pháp luật.

Tiền thân của Cục trên cơ sở Trung tâm Viễn thám trực thuộc Cục Đo đạc và Bản đồ Nhà nước (giai đoạn 1980 - 1993), trực thuộc Tổng cục Địa chính (giai đoạn 1994 – 2002), trực thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường (giai đoạn 2003 – 2025) và từ năm 2025 Cục Viễn thám quốc gia trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Môi trường. Qua quá trình xây dựng và phát triển, đến nay bộ máy tổ chức của Cục gồm: Ban Lãnh đạo Cục (Cục trưởng, các Phó Cục trưởng), Văn phòng và các phòng chức năng thực hiện công tác quản lý nhà nước (4 đơn vị), các đơn vị sự nghiệp trực thuộc thực hiện các dịch vụ sự nghiệp công về viễn thám (3 đơn vị)

Với gần 200 công chức, viên chức, người lao động (về trình độ đào tạo có 01 Phó giáo sư, 07 tiến sĩ, 81 thạc sĩ, còn lại là các kỹ sư, cử nhân, phần lớn chuyên môn về viễn thám, GIS, trắc địa, bản đồ, địa chính…), Cục Viễn thám quốc gia là đơn vị có đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật trẻ, trình độ chuyên môn cao, được đào tạo chính qui ở trong và ngoài nước nên đã nhanh chóng nắm bắt được khoa học - công nghệ mới và hoàn thành tốt các nhiệm vụ Nhà nước giao. Quá trình xây dựng và phát triển của Cục Viễn thám quốc gia có thể khái quát thành các giai đoạn chính sau đây:

1. Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1993 - Trung tâm Viễn thám trực thuộc Cục Đo đạc và Bản đồ Nhà nước

Cùng với những thành tựu trong nghiên cứu vũ trụ và phát triển công nghệ tin học, Viễn thám hiện đại hình thành và phát triển đem lại hiệu quả cao về khoa học công nghệ và kinh tế trong nhiều lĩnh vực điều tra cơ bản.

Ở Việt Nam, vào cuối những năm 1970 và đầu những năm 1980, nhờ việc tham gia Chương trình Intercosmos của các nước Xã hội Chủ nghĩa trước đây đã tạo cơ sở nền móng cho khoa học viễn thám có điều kiện thâm nhập và phát triển. Trong thời kỳ này, Trung tâm có chức năng sản xuất, nghiên cứu triển khai dịch vụ khoa học kỹ thuật và quản lý tư liệu trong lĩnh vực Viễn thám.

Viễn thám chính thức hình thành ở Việt Nam vào đầu những năm 80 Thế kỷ trước, thông qua Chương trình Intercosmos của các nước XHCN trước đây và trong khuôn khổ hoạt động của Ủy ban nghiên cứu Vũ trụ Việt Nam. Cuối năm 1980 Tổ Viễn thám trực thuộc Cục Đo đạc và Bản đồ Nhà nước được thành lập với 4 cán bộ điều động từ các đơn vị khác về. Công việc chuyên môn đầu tiên là nghiên cứu sử dụng ảnh hàng không đa phổ để hiện chỉnh bản đồ địa hình tỷ lệ 1: 25.000 khu vực Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh.

Năm 1982 Tổ Viễn thám trở thành Phòng Viễn thám có chức năng thu thập, bảo quản, cung cấp tư liệu viễn thám; xử lý và giải đoán ảnh phục vụ chủ yếu cho công tác bản đồ. Phòng  được bổ sung thêm cán bộ và đã nhanh chóng tiếp cận về công nghệ, thông qua việc đào tạo và nghiên cứu, sản xuất thử nghiệm.

Năm 1985 trước nhu cầu phát triển của công nghệ và sự lớn mạnh của Phòng Viễn thám, Trung tâm Viễn thám đã được thành lập hoạt động theo cơ chế đơn vị sự nghiệp. Cơ cấu tổ chức gồm 2 phòng chức năng, 5 tổ sản xuất và nghiên cứu thử nghiệm với gần 40 cán bộ, trong đó có 2 tiến sỹ, 18 kỹ sư.

Thành tích nổi bật:

- Khẳng định được vị thế của viễn thám trong lĩnh vực đo đạc bản đồ và tạo những bước đi vững chắc cho phát triển theo 3 trụ cột: xử lý, cung cấp ảnh - hiện chỉnh bản đồ địa hình - thành lập các loại bản đồ chuyên đề;

- Hiện chỉnh bản đồ địa hình tỷ lệ 1: 25.000, 1: 50.000 cho một số địa phương; xây dựng bộ bản đồ HTSDĐ toàn quốc tỷ lệ 1: 250.000. Cung cấp kịp thời bản đồ nền và trực tiếp tham gia lập hồ sơ địa giới hành chính 364/CT (được Thủ tướng CP tặng Bằng khen cho 1 tập thể và 1 cá nhân). Thành lập bộ bản đồ chuyên đề phục vụ khai thác lãnh thổ và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên cho tỉnh Thanh Hóa.

- Hoàn thành 2 đề tài NCKH cấp nhà nước (1 đề tài chủ trì, 1 đề tài phối hợp), 3 đề tài cấp Cục,

2. Giai đoạn từ năm 1994 đến năm 2002 – Trung tâm Viễn thám trực thuộc Tổng cục Địa chính

Thời kỳ đầu, Trung tâm hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp sau chuyển sang đơn vị sự nghiệp có thu. Cơ cấu tổ chức gồm 3 phòng chức năng, 5 tổ nghiên cứu và triển khai sản xuất với hơn 70 cán bộ, trong đó có 2 tiến sỹ, 2 thạc sỹ và hơn 50 kỹ sư/cử nhân.

Trong giai đoạn này, viễn thám đã khẳng định vị thế trên cơ sở các thành tích nổi bật, chuẩn bị cho giai đoạn hình thành một lĩnh vực quản lý mới.

Về sản xuất và dịch vụ kỹ thuật. Nhiệm vụ chính của đơn vị trong thời kỳ này là hiện chỉnh và thành lập bản đồ bằng công nghệ Viễn thám.

Trung tâm đã hiện chỉnh gần 300 mảnh bản đồ tỉ lệ 1/50.000, 487 mảnh tỉ lệ 1/25.000 ở nhiều vùng trong cả nước. Lần đầu tiên thành lập 131 mảnh bản đồ địa hình từ tỉ lệ 1/25.000 đến 1/1.000.000 vùng quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và Biển Đông.
          Xử lý, cung ứng các loại hình tư liệu viễn thám cho các cơ quan điều tra cơ bản, các viện nghiên cứu thiết kế và qui hoạch, các trường đại học của nhiều bộ, ngành và địa phương. Năm 2000, Trung tâm đã thực hiện thành lập hơn 2300 mảnh trực ảnh tỉ lệ 1/25.000 cho 33 tỉnh phục vụ công tác thành lập bản đồ hiện trạng sử dụng đất và điều tra đất đai chưa sử dụng trong đợt tổng kiểm kê đất đai. Đặc biệt, năm 1999 với công nghệ hiện chỉnh bản đồ bằng ảnh vệ tinh, Trung tâm đã tiến hành cập nhật  hoàn thành 34 mảnh bản đồ tỷ lệ 1/50.000 phục vụ kịp thời việc ký Hiệp ước sơ bộ biên giới Việt -Trung. Tiếp theo, vào năm 2000, Trung tâm Viễn thám đã tham gia công trình Tổng đồ Vịnh Bắc Bộ với cục Bản đồ Bộ Tổng tham mưu Bộ Quốc phòng, đưa tư liệu viễn thám trở thành một tài liệu tốt, phục vụ làm bộ bản đồ Tổng đồ Vịnh Bắc Bộ gồm 100 mảnh tỉ lệ 1/100.000 phục vụ trong đàm phán.

            Hiện chỉnh và thành lập các loại bản đồ bằng tư liệu viễn thám phục vụ các nhiệm vụ điều tra, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường, thành lập các bản đồ chuyên đề trong đó cá các bản đồ biến động lòng sông, cửa sông, bờ biển nhiều vùng khác nhau với các tỉ lệ 1/25.000, 1/50.000, 1/100.000; bản đồ biến động rừng ngập mặn tỉ lệ 1/100.000 trên toàn dải ven biển; bản đồ đất ngập nước tỉ lệ 1/250.000 phủ trùm toàn quốc, bản đồ kiểm kê và đánh giá tiềm năng nuôi trồng thủy sản ven bờ tỉ lệ 1/100.000…, những công trình này đã đáp ứng nhu cầu của các cơ quan và được đánh giá cao về chất lượng.

Hoạt động nghiên cứu khoa học. Với mục đích phát triển ứng dụng công nghệ viễn thám có hiệu quả trong điều kiện của nước ta, việc triển khai nghiên cứu ứng dụng là một nhiệm vụ quan trọng của đơn vị. Trong thời kỳ này, Trung tâm đã hoàn thành 2 đề tài về nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật viễn thám để khảo sát một số yếu tố hải dương học vùng bờ biển Việt Nam, nghiên cứu qui luật và dự đoán xu thế bồi tụ - xói lở vùng biển cửa sông Việt Nam (phối hợp với Viện Hải dương học Nha Trang).

Hoàn thành 4 đề tài cấp Tổng cục như “Qui trình ứng dụng ảnh vệ tinh để thành lập bản đồ hiện trạng sử dụng đất và đo vẽ địa hình tỉ lệ 1/50.000 bằng ảnh vệ tinh” và một số đề tài khác.Những đề tài nghiên cứu của Trung tâm đều có định hướng rõ rệt và có tác dụng tạo điều kiện để mở ra các nhiệm vụ mới, đáp ứng nhu cầu thực tiễn.
Phát triển, xây dựng đơn vị.

Trung tâm Viễn thám hoạt động trong lĩnh vực công nghệ cao, vì vậy, đơn vị thực hiện đầu tư phát triển thông qua các dự án sử dụng vốn ODA cũng như phát huy nội lực của đơn vị nhằm mục tiêu trang bị những thiết bị và công nghệ hiện đại một cách đổng bộ và tăng cường nguồn lực về số lượng cũng như về trình độ chuyên môn và năng lực quản lý.

Thời kỳ này, Trung tâm được đầu tư để chuyển dịch sang ứng dụng công nghệ số trong lĩnh vực viễn thám. Đơn vị đã hoàn thành 2 dự án sử dụng vốn ODA của Chính phủ Pháp “Viễn thám để lập bản đồ” năm 1998 và Dự án “Đo vẽ bản đồ phục vụ điều tra tài nguyên thiên nhiên” năm 2002.

Sau khi thực hiện dự án, Trung tâm Viễn thám đã được trang bị công nghệ hiện đại, cán bộ của Trung tâm được đào tạo chuyên sâu đã phát huy được khả năng ứng dụng và phát triển công nghệ viễn thám trong công tác bản đồ địa hình cũng như bản đồ chuyên đề phục vụ quản lý tài nguyên đất đai và giám sát nhiều khía cạnh môi trường.

 3. Giai đoạn từ năm 2003 đến năm 2013- Trung tâm Viễn thám quốc gia thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường - Giai đoạn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển ứng dụng viễn thám trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường

Năm 2002, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam quyết định thành lập Bộ Tài nguyên và Môi trường. Tại nghị định của Chính phủ số 91/2002/NĐ-CP ngày 11/11/2002 qui định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Trung tâm Viễn thám được thành lập lại trực thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường và nghị định số 25/2008/NĐ-CP ngày 04/3/2008, quyết định số 990/QĐ-BTNMT ngày 12/6/2008 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường đã đưa Trung tâm Viễn thám trở thành Trung tâm Viễn thám quốc gia. Đây là sự kiện lớn cho thấy sự phát triển của đơn vị ngày càng đi lên và công nghệ viễn thám có vai trò quan trọng trong các lĩnh vực của Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng như đối với các lĩnh vực điều tra cơ bản của nhiều ngành và địa phương.

Với vị trí của mình, Trung tâm Viễn thám quốc gia đã định hướng các hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ Bộ Tài nguyên và Môi trường giao nhằm phục vụ đa ngành, đa mục tiêu, trợ giúp công tác điều tra, giám sát hiện trạng tài nguyên và môi trường bằng công nghệ viễn thám. Đồng thời sử dụng có hiệu quả các nguồn đầu tư hiện đại hóa công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực và trở thành một Trung tâm Quốc gia mạnh trong  khu vực.

 Công nghệ viễn thám được áp dụng vào nhiều lĩnh vực đã đánh dấu sự lớn mạnh  và phát triển của Trung tâm Viễn thám quốc gia. Trong thời gian qua, việc sử dụng công nghệ viễn thám đang dần trở thành một nhu cầu khách quan phục vụ thiết thực, có hiệu quả cho các hoạt động khoa học, kinh tế, an ninh - quốc phòng xác định một vị thế mới của Trung tâm trong Bộ Tài nguyên và Môi trường và ở Việt Nam trong lĩnh vực viễn thám và địa tin học.

Thành tích đạt được: 

Mở rộng phạm vi hoạt động để phục vụ cho các lĩnh vực quản lý của Bộ:

- Thực hiện thành công dự án Chính phủ “Xây dựng cơ sở dữ liệu hệ thống thông tin địa hình thủy văn cơ bản phục vụ phòng chống lũ lụt và phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long”, một số dự án trong lĩnh vực môi trường (thành lập bộ bản đồ Đất ngập nước ven biển, bản đồ Nhạy cảm môi trường phục vụ đánh giá tác động môi trường; bộ bản đồ và cơ sở dữ liệu cho 3 vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam, bản đồ phân vùng chức năng môi trường, xác định nguồn gốc phát sinh dầu tràn trên biển...); Đưa vào áp dụng thành công một số công nghệ tiên tiến (công nghệ xử lý và giải đoán ảnh số, công nghệ Lidar, công nghệ chụp ảnh số, công nghệ GIS...);

- Tham gia thực hiện dự án của Chính phủ “Xây dựng cơ sở dữ liệu địa lý 1/10.000 gắn với mô hình số độ cao phủ trùm cả nước” với các nhiệm vụ “Thành lập cơ sở dữ liệu nền thông tin địa lý tỉ lệ 1/5000 khu vực đồng bằng sông Cửu Long” và “Xây dựng mô hình Geoid địa phương” nhằm đáp ứng mục tiêu của dự án là đảm bảo đủ năng lực phục vụ mọi nhu cầu quản lý Nhà nước, đáp ứng các hoạt động kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh quốc gia, thỏa mãn điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Dự kiến các nhiệm vụ hoàn thành năm 2011. Đáp ứng kịp thời nhu cầu về ảnh viễn thám cho tổng kiểm kê đất đai năm 2005, 2010, cho công tác kiểm kê rừng hàng năm và theo chu kỳ; Hoàn thiện quy trình và đưa công tác hiện chỉnh bản đồ địa hình vào thực hiện thường xuyên; Hoàn thành 2 đề tài NCKH cấp nhà nước, 22 đề tài, dự án sản xuất thử nghiệm cấp Bộ, 6 đề tài cấp cơ sở, 2 Nhiệm vụ hợp tác quốc tế theo Nghị định thư với nước ngoài. Nhiều đề tài hoàn thành dần được đưa vào ứng dụng trong thực tiễn điều tra cơ bản phục vụ các lĩnh vực của Bộ như: sử dụng ảnh vệ tinh để điều tra giám sát tài nguyên đất, tài nguyên nước, môi trường, biển và hải đảo, thành lập và hiện chỉnh hệ thống bản đồ cơ sở.

- Xây dựng và triển khai phần mềm Vilis về quản lý đất đai xuống các địa phương. Phần mềm này đã được tặng giải thưởng Techmart Việt Nam năm 2008;

Bước đột phá về đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng 

Trong thời kỳ này, Trung tâm Viễn thám quốc gia thực hiện dự án Chính phủ “Xây dựng Hệ thống giám sát tài nguyên thiên nhiên và môi trường tại Việt Nam” sử dụng vốn ODA của Chính phủ Cộng hòa Pháp có vốn đầu tư hơn 19,3 triệu Euro và gần 50 tỷ đồng Việt Nam. Một trong những kết quả quan trọng của dự án này là đã lắp đặt thành công và đưa vào vận hành  Trạm thu ảnh vệ tinh Việt Nam thu được 4 loại ảnh vệ tinh quang học và 1 loại ảnh radar;

Ngày 9/7/2009, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tổ chức Lễ khánh thành Trạm thu ảnh vệ tinh Việt Nam, đón tiếp Phó thủ tướng Chính phủ, Đại sứ quán Cộng hòa Pháp, lãnh đạo các Bộ, Ban, Ngành từ Trung ương đến địa phương… tới dự lễ cắt băng khánh thành Trạm thu ảnh vệ tinh hiện đại đầu tiên của Việt Nam. Việc đưa Trạm thu ảnh vệ tinh Việt Nam vào vận hành đã được đánh giá là một trong mười sự kiện lớn có ý nghĩa của Bộ Tài nguyên và Môi trường năm 2009 và cũng là một trong mười sự kiện về khoa học công nghệ của Việt Nam năm 2009. Với kết quả đạt được của dự án, lần đầu tiên ở Việt Nam thu được ảnh vệ tinh Spot của Pháp và ENVISAT của Châu Âu, chủ động xử lý và cung cấp tư liệu ảnh cho các Bộ, Ngành và địa phương; đào tạo 38 kỹ sư có trình độ cao về quản lý, vận hành Trạm thu, xử lý ảnh và 267 cán bộ về ứng dụng công nghệ viễn thám. Đã có 15 cơ sở ứng dụng được trang bị hệ thống máy, phần mềm chuyên ngành.

Cơ sở hạ tầng kỹ thuật của dự án đủ mức hiện đại cho việc vận hành Trạm thu ảnh vệ tinh và Trung tâm dữ liệu Viễn thám quốc gia đáp ứng cho sự phát triển tương lai của công nghệ vũ trụ và viễn thám ở Việt Nam. Cho đến nay, Trung tâm đã chủ động vận hành Trạm thu, kết quả đã thu được 96.116 cảnh ảnh Spot2, 164.727 cảnh ảnh Spot4, 15.557 cảnh ảnh Spot5 và 490 cảnh ảnh ASAR, 144 ảnh Meris của vệ tinh ENVISAT trong bán kính 2500Km tính từ Trạm thu. Đơn vị đã vận hành Trung tâm Dữ liệu quốc gia để xây dựng cơ sở dữ liệu ảnh và cung cấp cho các Bộ, Ngành, địa phương 423 cảnh ảnh Spot, 4383 mảnh bình đồ ảnh các tỉ lệ (trong đó có 1325 mảnh tỉ lệ 1/10.000 thuộc 6 tỉnh phục vụ cho công tác tổng kiểm kê đất đai năm 2010) và bình đồ ảnh cho 39 tỉnh phục vụ Chương trình điều tra tài nguyên rừng Chu kỳ IV.  Như vậy, Trung tâm Viễn thám quốc gia có đủ năng lực vận hành hệ thống thiết bị của dự án và thực hiện tốt nhiệm vụ xử lý, cung ứng tư liệu viễn thám cho các ngành và các địa phương. Đồng thời, giữ vai trò là người cung cấp chính thức, duy nhất các loại hình tư liệu viễn thám ở nước ta và hỗ trợ các ngành đẩy mạnh ứng dụng công nghệ viễn thám.

Với sự phát triển của Trung tâm Viễn thám quốc gia, công tác hợp tác quốc tế ngày càng được mở rộng với nhiều nước như: CH Pháp, Liên minh Châu Âu, CHLB Nga, Nhật Bản, Thái Lan, Singapore, Hàn Quốc… nhằm tìm hiểu công nghệ mới, trao đổi công nghệ, tìm nguồn đào tạo nhân lực, mở rộng thị trường. Kết quả các chương trình, dự án hợp tác quốc tế đã đóng góp rất quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển công nghệ viễn thám.

Trong các mặt hoạt động, Trung tâm Viễn thám quốc gia luôn thực hiện nghiêm chỉnh chính sách, pháp luật. Thường xuyên phát động các phong trào thi đua lao động sản xuất, thực hiện tốt qui chế dân chủ cơ sở tạo điều kiện thuận lợi cho Công đoàn, Đoàn thanh niên, Chi hội cựu chiến binh… hoạt động đạt nhiều thành tích; luôn luôn quan tâm nâng cao đời sống tinh thần vật chất cho cán bộ công nhân viên, làm tốt các hoạt động từ thiện xã hội, giúp đỡ đồng bào vùng bị thiên tai lũ lụt với số tiền 200 triệu đồng.

Đạt được thành tích nói trên trước hết là do Trung tâm luôn nhận được sự quan tâm, chỉ đạo của Ban Cán sự Đảng, của lãnh đạo Bộ Tài nguyên và Môi trường, các vụ quản lý của Bộ, của các cơ quan đơn vị trực thuộc Bộ, các cơ quan quản lý Nhà nước cấp trên và các khách hàng trong và ngoài nước.

Bên cạnh đó, lãnh đạo và tập thể cán bộ công nhân viên Trung tâm Viễn thám quốc gia nhiệt tình sáng tạo, đoàn kết cùng nhau phấn đấu vì mục tiêu xây dựng đơn vị phát triển, đảm bảo việc làm, thu nhập cho người lao động. Trung tâm đã phát huy được truyền thống tốt đẹp của nhiều thế hệ cán bộ công nhân viên của đơn vị. Trung tâm có chiến lược phát triển đúng, có kế hoạch và tổ chức thực hiện tốt nhiệm vụ.
Với những thành tích và sự nỗ lực của toàn thể cán bộ công nhân viên, Trung tâm Viễn thám quốc gia đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường tặng 30 Bằng khen cho tập thể, cá nhân; Nhà nước đã tặng thưởng 2 bằng khen của Thủ tướng Chính phủ và một Huân chương Lao động Hạng ba cho tập thể Trung tâm và 5 Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, 3 Huân chương Lao động Hạng ba cho các cá nhân.

4. Giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2025: Cục Viễn thám quốc gia trực thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường – Giai đoạn xây dựng thể chế, chính sách pháp luật về viễn thám và đẩy mạnh ứng dụng viễn thám trong quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường      

Trước yêu cầu thực tiễn, với nội dung quản lý nhà nước về viễn thám đã được định hình ngày càng rõ nét: công tác xây dựng trình cấp có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về viễn thám; kiểm tra, giám sát việc ứng dụng công nghệ viễn thám vào các mục đích phát triển kinh tế xã hội và an ninh quốc phòng; phát triển công nghệ viễn thám phục vụ cho công tác quản lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường; quản lý hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về viễn thám, quản lý hệ thống cơ sở hạ tầng viễn thám phục vụ cho thu nhận, lưu trữ và xử lý và trao đổi thông tin, dữ liệu viễn thám. Như vậy mô hình tổ chức của đơn vị sự nghiệp - Trung tâm Viễn thám quốc gia không phù hợp với yêu cầu quản lý. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 21/2013/NĐ-CP ngày 04 tháng 3 năm 2013 quy định chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tố chức của Bộ Tài nguyên và Môi trường trong đó có việc thành lập Cục Viễn thám quốc gia trên cơ sở Trung tâm Viễn thám quốc gia trước đây.

Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Quyết định số 1166/QĐ-BTNMT ngày 17/7/2013 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Viễn thám quốc gia, theo đó Cục Viễn thám quốc gia là tổ chức trực thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường có chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng quản lý và thực thi các hoạt động về viễn thám phục vụ giám sát tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường, phòng tránh thiên tai, phát triển kinh tế xã hội và an ninh, quốc phòng; thực hiện các dịch vụ về viễn thám theo quy định của pháp luật.

          Trên cơ sở vị trí chức năng, nhiệm vụ quyền hạn, Cục Viễn thám quốc gia đã chuyển sang hoạt động theo mô hình quản lý nhà nước với việc hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, xây dựng quy hoạch, kế hoạch dài hạn phát triển lĩnh vực viễn thám, đẩy mạnh ứng dụng viễn thám trong quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và phục vụ phát triển các ngành kinh tế xã hội. Cơ cấu tổ chức được hình thành với việc tách bạch bộ phận quản lý nhà nước ra khỏi bộ phận sự nghiệp, dịch vụ công. Bộ máy quản lý nhà nước của Cục gồm Văn phòng và 06 phòng chức năng: Kế hoạch, Tài chính, Khoa học và Hợp tác quốc tế, Cơ sở hạ tầng viễn thám, Quản lý hoạt động viễn thám, Công nghệ viễn thám; bộ phận sự nghiệp gồm 07 đơn vị: Đài Viễn thám trung ương, các Trung tâm: Giám sát tài nguyên môi trường và thiên tai, Cơ sở dữ liệu viễn thám, Nghiên cứu và triển khai công nghệ viễn thám, Thành lập và Hiện chính bản đồ viễn thám, Dịch vụ viễn thám và địa tin học, Viễn thám miền Nam. Trong quá trình hình thành và phát triển thì đây là giai đoạn có bộ máy được định hình hoàn thiện về quy mô, tạo tiền đề cho phát triển của lĩnh vực viễn thám sau này. Cùng với việc thực thi các nhiệm vụ quản lý nhà nước như xây dựng thể chế, chính sách pháp luật, quản lý cơ sở hạ tầng, cơ sở dữ liệu, thanh tra, kiểm tra, đẩy mạnh ứng dụng viễn thám trên nhiều ngành, lĩnh vực, Cục còn chỉ đạo triển khai thực hiện các đề án, dự án, nhiệm vụ chuyên môn, nghiệp vụ về điều tra cơ bản, giám sát, quan trắc, dự báo phục vụ công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường.

Tập trung xây dựng thể chế, chính sách pháp luật về viễn thám

Giai đoạn này đánh dấu bước nhảy vọt trong hoàn thiện thể chế, chính sách quản lý nhà nước về viễn thám, lần đâu tiên các quy định về viễn thám đã được cụ thể hóa trong văn bản luật. Quốc hội ban hành Luật Đo đạc bản đồ năm 2018, trong đó có các quy phạm điều chỉnh hoạt động viễn thám, Chính phủ ban hành Nghị định số 03/2019/NĐ-CP ngày 04 tháng 01 năm 2019 quy định về hoạt động viễn thám, đây là hành lang pháp lý quan trọng để thực hiện công tác quản lý nhà nước về viễn thám. Nghị định số 03/2019/NĐ-CP đã cụ thể hóa các nhiệm vụ quản lý nhà nước về viễn thám, trong đó phân định rõ chức năng xây dựng, quản lý, cung cấp dữ liệu viễn thám giữa các Bộ, ngành, địa phương. Trước đây việc quản lý thu nhận, xử lý, lưu trữ cung cấp chưa được quy định cụ thể bằng các quy phạm pháp luật, nhều bộ, ngành tham gia các hoạt động này như Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Quốc phòng, Bộ Công An, một số Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Chính vì việc phân định chưa rõ ràng dẫn đến lãng phí nguồn lực đầu tư từ ngân sách cho các Bộ, ngành địa phương (cùng đầu tư cho các cơ sở hạ tầng và dữ liệu viễn thám cho các hạng mục giống nhau) và việc quản lý bị phân tán thiếu thống nhất.

Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 149/QĐ-TTG ngày 01 tháng 02 năm 2019 phê duyệt Chiến lược phát triển viễn thám quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2040, đây là định hướng quan trọng cho sự phát triển của lĩnh vực viễn thám trong giai đoạn đến năm 2040, mở ra tiền đề cho việc đẩy mạnh các hoạt động quản lý nhà nước và ứng dụng viễn thám trong quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, và phát triển kinh tế xã hội. Trong giai đoạn này Cục đã xây dựng trình Bộ trưởng ban hành 12 thông tư quy định về kỹ thuật và định mức kinh tế cho lĩnh vực viễn thám, đây là công cụ quan trọng phục vụ công tác quản lý viễn thám. Về cơ bản hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đã đáp ứng được yêu cầu công tác quản lý nhà nước.

Với hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về viễn thám hiện hành, đã từng bước giải quyết những vấn đề về cơ chế, chính sách pháp luật, khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt động liên quan đến viễn thám, đồng thời nâng cao hiệu quả ứng dụng công nghệ viễn thám trong quản lý tài nguyên, giám sát môi trường, thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo đảm quốc phòng - an ninh và phát triển kinh tế - xã hội

Đẩy mạnh ứng dụng viễn thám trong quản lý tài nguyên bảo vệ môi trường và đáp ứng nhu cầu của các ngành, lĩnh vực, địa phương phục vụ phát triển kinh tế xã hội và quốc phòng – an ninh

Vệ tinh viễn thám đầu tiên của Việt Nam (VNREDSat-1) được phóng thành công lên quỹ đạo ngày 7/5/2013 ghi dấu mốc lịch sử quan trọng cho ngành khoa học vũ trụ và viễn thám của Việt Nam, Cục Viễn thám quốc gia là một đơn vị chính tham gia quá trình thu nhận và xử lý dữ liệu từ vệ tinh. Việt Nam đã chủ động cung cấp ảnh vệ tinh độ phân giải cao cho các Bộ, ngành và các tỉnh thành phố có nhu cầu sử dụng dữ liệu ảnh vệ tinh viễn thám phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, ứng phó với thảm hoạ thiên nhiên và biến đổi khí hậu. Đặc biệt, dự án VNREDSat-1 là sự phối kết hợp để tận dụng các cơ sở hạ tầng sẵn có của Hệ thống thu nhận, lưu trữ và xử lý ảnh các vệ tinh viễn thám của Bộ Tài nguyên Môi trường, nhằm tạo ra một hệ thống giám sát hoàn chỉnh, độc lập từ vệ tinh đến Trạm thu dữ liệu viễn thám mặt đất và trung tâm xử lý phân phối dữ liệu ảnh viễn thám tại Việt Nam. Về tính năng kỹ thuật của vệ tinh: Vệ tinh đã chụp ảnh toàn bộ vùng lãnh thổ và vùng biển Việt Nam độ phân giải cao 2,5 m và độ phân giải phổ tương đương ảnh quang học SPOT 5. Cho đến nay sau 7 năm phóng lên vũ trụ vệ tinh này vẫn đang hoạt động, đã vận hành Trạm thu dữ liệu viễn thám để thu nhận hơn 50.000 cảnh ảnh VNREDSat-1 và đã xử lý, tạo ra hàng nghìn sản phẩm viễn thám từ dữ liệu VNREDSat-1 để cung cấp cho các Bộ, ngành và địa phương. Các sản phẩm viễn thám VNREDSat-1 do Cục Viễn thám quốc gia cung cấp đã được sử dụng trong nhiều dự án lớn của Chính phủ, như Chương trình kiểm kê đất đai quốc gia 2015, Điều tra trữ lượng tài nguyên rừng Chu kỳ V (2013-2016) hoặc hiện chỉnh bản đồ địa hình tỷ lệ 1: 50.000 bao trùm toàn bộ Quốc gia. Giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020, Trạm thu dữ liệu viễn thám đã thu nhận, xử lý và lưu trữ được khoảng 68.696 cảnh ảnh từ vệ tinh viễn thám VNREDSat-1 phủ trùm lãnh thổ và lãnh hải Việt Nam và một số khu vực trên thế giới. Các ảnh thu nhận theo các yêu cầu đặc thù, hợp tác quốc tế, các yêu cầu từ các bộ, ngành, địa phương và các tổ chức trong nước. Thực hiện chương trình hợp tác Asean - Ấn Độ, Cục Viễn thám quốc gia được giao chủ trì thực hiện dự án xây dựng “Trạm ASEAN - Ấn Độ về dò tìm và tiếp nhận dữ liệu và Trung tâm Xử lý và Phân phối Dữ liệu” tại Khu công nghiệp Mỹ Phước 3, tỉnh Bình Dương. Hiện nay Cục đang triển khai dự án đầu tư phát triển hạ tầng “Tăng cường năng lực giám sát tài nguyên môi trường cho Cục Viễn thám quốc gia tại số 79 Văn Tiến Dũng”, theo đó toàn bộ hạ tầng tại trụ sở Cục được cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới, khang trang, hiện đại, đáp ứng yêu cầu phát triển của Cục đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2040. Trong giai đoạn 2020 - 2024, hệ thống trạm thu nhận dữ liệu viễn thám phát triển với 02 trạm thu nhận dữ liệu viễn thám được xây mới, nâng số lượng trạm thu nhận dữ liệu viễn thám lên 03 trạm. Bộ Nông nghiệp và Môi trường quản lý 03 trạm thu nhận dữ liệu từ các vệ tinh VNREDSat-1 (cung cấp dữ liệu độ phân giải 2,5m), SPOT6 (cung cấp dữ liệu độ phân giải 1,5 m), KOMPSAT-3A (cung cấp dữ liệu độ phân giải 0,5m). 

Cơ sở dữ liệu ảnh viễn thám quốc gia về cơ bản đã hoàn thành, đi vào hoạt động trong năm 2025. Thông tin, dữ liệu viễn thám được dùng để cung cấp thông tin thường xuyên, đột xuất về tình hình khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên, diễn biến môi trường, biến đổi khí hậu và dự báo cảnh báo thiên tai bao gồm.

Dữ liệu viễn thám cũng đã được cung cấp để phục vụ quản lý nhà nước về nông nghiệp và phát triển nông thôn như điều tra đánh giá tài nguyên rừng, diện tích đất trồng lúa, thông tin cho các sản phẩm chủ lực quốc gia, vùng tập trung phục vụ quản lý thúc đẩy tái cơ cấu nông nghiệp; dự báo, cảnh bảo cháy rừng, thông tin hỗ trợ tìm kiếm, cứu nạn; cập nhật bản đồ hiện trạng, quy hoạch về các chuyên ngành giao thông vận tải tại các địa phương, các vùng và toàn quốc; biên tập, cập nhật hải đồ các tuyến luồng hàng hải công cộng (bao gồm cả vị trí đón trả hoa tiêu), vùng nước cảng biển, tuyến hàng hải ven biển; phối hợp ứng phó sự cố tràn dầu, phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn trên biển; thành lập và cập nhật bản đồ quân sự phục vụ cho mục đích quốc phòng, an ninh; phục vụ công tác nghiên cứu khoa học.

Trong giai đoạn này các nhiệm vụ sự nghiệp của Cục tập trung vào công tác điều tra, đánh giá, giám sát tài nguyên thiên nhiên và môi trường bằng công nghệ viễn thám. Triển khai thực hiện tốt các dự án: “Theo dõi biến động nguồn nước, các hoạt động khai thác sử dụng nước ở biên giới phía thượng nguồn lưu vực sông Hồng và sông Mê Công”; “Giám sát việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai bằng công nghệ viễn thám”; “Giám sát đảo xa bờ, cải tạo đảo do nước ngoài chiếm đống trái phép, giám sát ô nhiễm biển ven bờ, xói lở bờ sông, bờ biển”; “Chương trình hợp tác giữa hai Chính phủ Việt Nam và Hà Lan về dịch vụ nước và khí hậu đối với quản lý nguồn nước xuyên biên giới và quản lý rủi ro thiên tai” (G2G), “Xây dựng cơ sở dữ liệu viễn thám quốc gia”. Triển khai các nhiệm vụ một số nhiệm vụ Chính phủ giao: “Giám sát một số vùng biển, đảo trọng điểm xa bờ bằng công nghệ viễn thám phục vụ phát triển kinh tế xã hội và bảo đảm an ninh quốc phòng”, “Điều tra, đánh giá việc khai thác và sử dụng nước dưới đất, tác động đến sụt lún bề mặt đất khu vực thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đồng bằng Sông Cửu Long, định hướng quản lý, khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên nước dưới đất”, “Điều tra khảo sát bổ sung, xây dựng bản đồ dị thường động lực các vùng biển Việt Nam phục vụ phát triển kinh tế biển và an ninh quốc phòng”, “Đề án Kiểm kê đất đai, lập bản đồ hiện trạng sử dụng đất năm 2019” và nhiều nhiệm vụ cấp Bộ khác. Ngoài các nhiệm vụ phục vụ công tác điều tra cơ bản, quan trắc, dự báo thì kết quả các nhiệm vụ tập trung vào công tác quản lý nhà nước, cung cấp thông tin cho lãnh đạo Bộ để thực hiện nhiệm vụ quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế xã hội. 

Trong giai đoạn này Cục cũng chủ trì nhiều đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước và cấp Bộ như: “Nghiên cứu ứng dụng công nghệ viễn thám để giám sát và cảnh báo những tác động của biến đổi khí hậu nhằm chủ động phòng tránh và giảm thiểu thiệt hại do tai biến thiên nhiên” thuộc Chương trình khoa học và công nghệ phục vụ chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu, “ Nghiên cứu kết hợp công nghệ viễn thám và mô hình thủy lực xây dựng kịch bản tài nguyên nước các hồ chứa trong trường hợp sự cố”, “Nghiên cứu ứng dụng công nghệ viễn thám phục vụ giám sát đất trồng lúa” và nhiều đề tài khoa học công nghệ cấp Bộ khác.

Để ghi nhận những thành tích đã đạt được Chủ tịch nước đã trao tặng Huân chương lao động hạng nhì, Thủ tướng Chính phủ tặng bằng khen cho Cục; 02 cá nhân được tặng thưởng Huân chương lao động hạng nhì, 02 cá nhân được bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, ngoài ra còn nhiều tập thể và cá nhân được tặng bằng khen, cờ thi đua của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường.

Phát triển lĩnh vực viễn thám Việt Nam trở thành một lĩnh vực công nghệ cao có trình độ khoa học công nghệ hiện đại đạt mức tiên tiến của khu vực và tiếp cận với trình độ tiên tiến trên thế giới; Bảo đảm việc xây dựng và cung cấp hạ tầng thông tin viễn thám khách quan, đầy đủ, chính xác, kịp thời nhằm phục vụ các yêu cầu của quản lý nhà nước về giám sát tài nguyên thiên nhiên và môi trường, phát triển kinh tế - xã hội; bảo đảm quốc phòng - an ninh; phòng chống thiên tai; ứng phó với biến đổi khí hậu; Xây dựng cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực viễn thám có năng lực, hoạt động có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển chung của ngành tài nguyên và môi trường - là những định hướng quan trọng của ngành viễn thám trong thời gian tới.

5. Giai đoạn từ năm 2025: Cục Viễn thám quốc gia trực thuộc bộ Nông nghiệp và Môi trường – Giai đoạn lĩnh vực viễn thám đột phá về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số đáp ứng kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Trên cơ sở Nghị quyết 18-NQ/TW của hội nghị lần thứ sáu ban chấp hành trung ương khoá XII một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 176/2025/QH15 ngày 1/3/2025 về cơ cấu tổ chức Chính phủ, xác định cơ cấu tổ chức Chính phủ nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV bao gồm 14 Bộ và 3 cơ quan ngang Bộ, thay thế Nghị quyết 08/2021/QH15. Các bộ, cơ quan ngang bộ này chính thức hoạt động từ ngày 1/3/2025, trong đó có Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 35/NĐ-CP ngày 25 tháng 02 năm 2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, trong đó Cục Viễn thám quốc gia là đơn vị quản lý nhà nước trực thuộc Bộ.

Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 10/8/2022 của Bộ Chính trị về "Chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030" có vai trò quan trọng và trực tiếp ảnh hưởng đến sự phát triển của nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực viễn thám. Nghị quyết 57-NQ/TW xác định khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là động lực chính cho tăng trưởng kinh tế. Viễn thám là một trong những công nghệ hiện đại, có tính ứng dụng cao, vì vậy được khuyến khích đầu tư và phát triển trong khuôn khổ các chiến lược về công nghệ cao, chuyển đổi số, và kinh tế xanh. Tạo điều kiện để xây dựng chính sách, thể chế ưu tiên phát triển các công nghệ không gian, trong đó có công nghệ viễn thám. Nghị quyết số 57-NQ/TW đóng vai trò định hướng, tạo động lực và môi trường thuận lợi cho sự phát triển toàn diện của lĩnh vực viễn thám, từ chính sách, đầu tư, nghiên cứu đến ứng dụng thực tiễn. Trên chủ trương, định hướng này, viễn thám có điều kiện phát triển mạnh mẽ, góp phần vào mục tiêu phát triển bền vững, hiện đại hóa đất nước và nâng cao năng lực quản lý nhà nước trong nhiều lĩnh vực.

Trên cơ sở các chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước đã mở ra thời cơ và vận hội mới cho sự phát triển của lĩnh vực viễn thám. Theo đó xác định:

- Viễn thám là công cụ quan trọng, không thể thay thế trong quan trắc, giám sát tài nguyên thiên nhiên, môi trường, nông nghiệp và ứng phó biến đổi khí hậu. Phát triển viễn thám cần gắn với chiến lược chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế xanh, tuần hoàn và nông nghiệp thông minh. Công nghệ viễn thám gắn liền với trí tuệ nhân tạo phải đi trước một bước nhằm cung cấp thông tin phục vụ nông nghiệp công nghệ cao, bảo vệ rừng, sử dụng tài nguyên nước và giám sát môi trường

- Một số mục tiêu lớn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045: (1) Hoàn thiện hệ sinh thái viễn thám quốc gia hiện đại: Làm chủ công nghệ vệ tinh, phát triển mạng lưới trạm thu nhận và xử lý dữ liệu toàn quốc, xây dựng Cơ sở dữ liệu ảnh viễn thám quốc gia liên thông với cơ sở dữ liệu nông nghiệp và môi trường; (2) Ứng dụng viễn thám sâu rộng trong tất cả các lĩnh vực của nông nghiệp và môi trường: Từ quy hoạch sử dụng đất, giám sát rừng, biến đổi khí hậu, chất lượng không khí đến phát hiện sớm thiên tai, dịch bệnh trên cây trồng – vật nuôi; (3) Đưa Việt Nam trở thành quốc gia có năng lực viễn thám tiên tiến trong khu vực ASEAN, từng bước làm chủ công nghệ lõi (AI, phân tích ảnh vệ tinh, dữ liệu lớn viễn thám) và phát triển kinh tế dữ liệu viễn thám.

- Các đột phá chiến lược: (1) Đột phá về thể chế, chính sách, trong đó tập trung hoàn thiện hành lang pháp lý: Luật Viễn thám (hoặc luật vũ trụ) theo hướng mở, khuyến khích doanh nghiệp, tổ chức tham gia đầu tư hệ thống thu nhận dữ liệu viễn thám, nghiên cứu và phát triển công nghệ viễn thám; (2) Đột phá về công nghệ và hạ tầng, trong đó làm chủ công nghệ vệ tinh viễn thám (quang học và radar); xây dựng các trạm thu ảnh phân giải cao. Ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (big data), blockchain trong phân tích, chia sẻ và thương mại hóa sản phẩm viễn thám; (3) Đột phá về ứng dụng vào ngành nông nghiệp – môi trường, trong đó xác định viễn thám và trí tuệ nhân tạo trở thành công cụ chính cung cấp thông tin quan trắc, giám sát và quản lý nông nghiệp, nông thôn, tài nguyên và môi trường. Tích hợp viễn thám trong công tác quy hoạch nông nghiệp, theo dõi biến đổi khí hậu, quản lý môi trường; (4) Đột phá về nguồn nhân lực, trong đó xác định phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao về viễn thám gắn với trí tuệ nhân tạo; Liên kết với các nước tiên tiến (Pháp, Nhật, Mỹ) để trao đổi chuyên gia, chuyển giao công nghệ.

- Các nhiệm vụ trong tâm, các đề án, dự án quan trọng của ngành trong nhiệm kỳ 2025-2030: (1) Đề án xây dựng “Luật viễn thám” hoặc “Luật vũ trụ”; (2) Đề án “Xây dựng chùm vệ tinh viễn thám để quan trắc, giám sát, quản lý nông nghiệp, tài nguyên và môi trường”; (3) Đề án “Ứng dụng viễn thám và trí tuệ nhân tạo để quan trắc, giám sát, quản lý nông nghiệp, tài nguyên và môi trường”.

Trong giai đoạn từ nay đến năm 2030 Cục tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng viễn thám trong trong giám sát nông nghiệp và môi trường, trong đó xác định công nghệ viễn thám được ứng dụng rộng rãi ở các bộ, ngành, đặc biệt là Bộ Nông nghiệp và Môi trường. Theo đó, công nghệ viễn thám tiếp tục được triển khai ứng dụng trong các lĩnh vực như giám sát quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, theo dõi khai thác sử dụng tài nguyên nước xuyên biên giới, giám sát môi trường không khí, kiểm kê khí nhà kính, hỗ trợ điều tra cơ bản về địa chất, khoáng sản, cập nhật dữ liệu nền địa lý, giám sát thiên tai, điều tra, đánh giá, giám sát tài nguyên rừng, canh tác nông nghiệp.... Việc triển khai ứng dụng viễn thám ở các địa phương diễn ra khá mạnh mẽ, với khoảng 50% tổng số địa phương đã ứng dụng công nghệ viễn thám, tập trung ở các lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng, quan trắc, điều tra, quản lý đất đai, đo đạc và bản đồ, biến đổi khí hậu và nông nghiệp.

Văn Phòng Cục Viễn thám quốc gia

Ý kiến